Emily trên dải cầu vồng
Phan_21
“Mặc áo khoác vào,” bà nói. “Chúng ta sẽ đến Trăng Non.”
Emily lẳng lặng tuân lời. Cô bước vào ghế sau cỗ xe trượt tuyết còn bà Ruth ngồi lên ghế trước cạnh ông Jimmy. Ông Jimmy ngoái đầu lại, nhìn Emily từ phía trên cổ áo choàng lông của ông và nói “Chào Mèo Con,” với vẻ tươi cười khích lệ hơi quá nồng đậm. Có vẻ như ông Jimmy tin rằng đã có chuyện gì đó rất nghiêm trọng xảy ra, mặc dù ông không biết cụ thể là chuyện gì.
Chuyến xe băng qua những khoảng xám, những ngọc ngà sương khói đẹp đẽ của buổi chiều đông không mang lại cảm giác dễ chịu. Lúc xe đến Trăng Non, không khí cũng không hề dễ chịu. Bà Elizabeth trông có vẻ nghiêm nghị. Bà Laura trông có vẻ sợ hãi.
“Tôi đưa Emily về đây,” bà Ruth nói, “vì tôi cảm thấy mình không đủ khả năng một mình ứng phó với con bé. Chị và Laura, Elizabeth ạ, phải tự mình đánh giá lối cư xử của con bé.”
Vậy ra sắp có một buổi xét xử tại gia đình, trong đó cô, Emily, trình diện trước tòa án công lý. Công lý... liệu cô có nhận được công lý không? Chà, cô sẽ đấu tranh vì nó. Cô hất cao đầu và sắc màu hồng hào bắt đầu trở lại trên khuôn mặt.
Lúc cô từ phòng riêng bước xuống dưới tầng thì mọi người đã tề tựu trong phòng khách. Bà Elizabeth ngồi cạnh bàn. Bà Laura đã nước mắt ngắn nước mắt dài ngồi trên sofa. Bà Ruth đứng trên tấm thảm nhỏ trước lò sưởi, cáu kỉnh nhìn ông Jimmy, lúc này đã yên vị ở góc phía sau thay vì tới kho thóc như đáng lẽ phải thế, kiên quyết, y hệt Perry, muốn xem xem mọi người định làm gì Emily. Bà Ruth đang khó chịu. Bà chỉ ước gì bà Elizabeth đừng có lúc nào cũng khăng khăng chấp thuận cho ông Jimmy tham gia vào các buổi họp gia đình riêng tư mỗi khi ông muốn có mặt. Thật phi lý khi cho rằng một đứa trẻ to xác như ông Jimmy lại có bất kỳ quyền gì ở đó.
Emily không ngồi xuống. Cô bé đến đứng cạnh cửa sổ, mái đầu đen nổi bật trên nền rèm màu đỏ thẫm, tối sẫm và dịu dàng như một cây thông in hình trên nền trời hoàng hôn mùa xuân. Ngoài kia, cả thế giới trắng xóa tê cóng trải dải dưới ánh chạng vạng buốt giá đầu tháng Ba. Phía bên kia khu vườn và hàng dương Lombardy, những cánh đồng của trang trại Trăng Non toát lên nét cô đơn và thê lương, đằng sau nó, bầu trời lúc chiều tà hằn lên vệt màu đỏ ối. Emily rùng mình.
“Chà,” ông Jimmy nói, “bắt đầu đi thôi để giải quyết chuyện này cho xong. Chắc hẳn Emily muốn ăn tối rồi.”
“Một khi cậu biết điều mà tôi đã biết về con bé, cậu sẽ thấy con bé không chỉ cần bữa tối thôi đâu,” bà Dutton nói giọng cay độc.
“Tôi biết tất cả mọi điều mà bất kỳ người nào cần biết về Emily,” ông Jimmy bật lại.
“Jimmy Murray, cậu là đồ con lừa,” bà Ruth giận dữ nói.
“Ái chà, chúng ta là họ hàng mà,” ông Jimmy tán thành với vẻ mãn nguyện.
“Jimmy, im đi,” bà Elizabeth oai nghiêm nói, “Ruth, bà cần nói gì thì nói cho chúng tôi nghe xem nào.”
Bà Ruth kể lại toàn bộ câu chuyện. Bà bám sát thực tế, nhưng thái độ tường thuật của bà khiến sự tình thậm chí còn có vẻ đen tối hơn thực chất. Thực ra, bà đã trù tính để nhào nặn từ đó một câu chuyện vô cùng xấu xa, và Emily rùng mình lần nữa khi nghe kể lại. Trong khi câu chuyện được tường thuật lại, khuôn mặt bà Elizabeth càng lúc càng nghiêm nghị và lạnh lùng, bà Laura bật khóc, còn ông Jimmy bắt đầu huýt sáo.
“Cậu ta đã hôn lên cổ con bé,” bà Ruth kết luận. Bà nhấn mạnh vào chuyện đó như thể, hôn lên những chỗ bình thường người ta vẫn hôn đã xấu xa lắm rồi nhưng hôn lên cổ là chuyện còn ghê tởm và đáng hổ thẹn hơn gấp ngàn lần.
“Thật ra là ở tai cháu chứ,” Emily lầm bầm, không kịp kiềm chế nụ cười toe bất chợt nở rộ trên khuôn mặt. Bên dưới hết thảy những lo lắng sợ hãi đang lan toả trong cô, vẫn có một Thứ Gì Đó đang đứng ở phía sau mà thưởng thức chuyện này - cái kịch tính, khía cạnh hài kịch của nó. Nhưng sự bột phát của nó lại là tột cùng thiếu may mắn. Nó khiến cô bé có vẻ xấc láo và không biết xấu hổ.
“Nào, tôi hỏi các chị,” bà Ruth nói, vung hai bàn tay mập mạp, “liệu các chị có thể trông đợi tôi giữ một đứa con gái như nó ở lại nhà tôi lâu hơn nữa không?”
“Không, tôi không cho là chúng tôi có thể làm thế,” bà Elizabeth chậm rãi nói.
Bà Laura bắt đầu nức nở không chút kiềm chế. Ông Jimmy dập hai chân ghế trước xuống đánh rầm một cái.
Emily xoay người khỏi cửa sổ và đối diện với tất cả bọn họ.
“Cháu muốn giải thích chuyện đã xảy ra, bác Elizabeth.”
“Ta nghĩ chúng ta đã nghe chuyện này đủ rồi,” bà Elizabeth lạnh lùng nói - càng lạnh lùng hơn vì trái tim bà đã bị một nỗi thất vọng cay đắng nào đó lấp kín. Bà đã dần dần trở nên yêu quý và tự hào về Emily, theo cái cách kín đáo, dè dặt của một người mang trong mình dòng máu Murray: bằng việc phát hiện ra hạnh kiểm của cô bé có thể đến mức này, bà Elizabeth không khác gì bị giáng cho một đòn trí mạng. Nỗi đau đớn sâu sắc ấy càng khiến bà trở nên tàn nhẫn hơn
“Không đâu, giờ thái độ này không hiệu quả nữa rồi, bác Elizabeth ạ,” Emily bình tĩnh nói. “Cháu đã quá tuổi để bị đối xử như thế rồi. Các bác phải nghe câu chuyện từ góc nhìn của cháu.”
Khuôn mặt cô bé toát lên cái sắc thái Murray đó - cái sắc thái mà bà Elizabeth từng biết và vẫn còn nhớ rõ mồn một từ rất lâu rồi. Bà thấy dao động.
“Tối qua cháu đã có cơ hội giải thích rồi,” bà Ruth cắm cảu, “và cháu đã không tận dùng nó.”
“Bởi vì cháu bị tổn thương và giận dữ do bác suy nghĩ về cháu một cách tồi tệ hết mức như thế,” Emily nói. “Thêm nữa, cháu biết bác sẽ không tin cháu.”
“Ta sẽ tin cháu nếu cháu kể sự thực,” bà Ruth nói. “Lý do khiến cháu không giải thích vào buổi tối hôm qua là vì dưới tình thế cấp bách đó, cháu không thể nghĩ ra được lời bao biện nào cho hạnh kiểm của cháu. Phỏng chừng từ lúc đó đến giờ cháu đã có đủ thời gian để bịa ra điều gì đó rồi.”
“Chị đã bao giờ biết Emily nói dối một lần nào chưa?” ông Jimmy hỏi.
Bà Dutton hé môi định nói “Rồi”. Nhưng rồi lại khép miệng lại. Hẳn là ông Jimmy muốn hỏi một ví dụ cụ thể? Bà tin chắc Emily đã nói với bà... những chuyện bịa đặt... một vài lần, nhưng bà có bằng chứng gì chứng minh điều đó chứ?
“Chị có biết không?” Gã Jimmy xấu xa đó vẫn không chịu nhượng bộ.
“Ta sẽ không để cậu tra hỏi ta.” Bà Ruth quay lưng lại phía ông. “Elizabeth, tôi vẫn nói với chị rằng đứa con gái đó rất khó lường và ranh mãnh phải không?”
“Đúng,” bà Elizabeth tội nghiệp thừa nhận, có phần cảm tạ trời đất vì không cần phải do dự khi xác nhận điểm đó. Chắc chắn bà Ruth đã nói với bà như thế không biết bao nhiêu lần.
“Và chẳng phải chuyện này đã chứng tỏ tôi nói đúng sao?”
“Tôi... e là... vậy.” Bà Elizabeth Murray cảm thấy đây là một thời khắc cay đắng xiết bao.
“Vậy thì chị phải quyết định cần xử lý chuyện này ra sao,” bà Ruth đắc thắng nói.
“Vẫn chưa đâu,” ông Jimmy kiên quyết chen ngang. “Các chị vẫn chưa cho Emily chút xíu cơ hội giải thích nào. Như thế không phải là cách xét xử công bằng. Giờ hãy cho cô bé mười phút nói chuyện mà không ngắt ngang lần nào hết.”
“Làm thế cho công bằng đi,” bà Elizabeth nói, bất ngờ trở nên kiên quyết. Trong lòng bà đang nảy sinh một niềm hy vọng điên rồ, phi lý rằng, sau rốt, Emily có lẽ có khả năng tự trả lại sự trong sạch cho bản thân.
“Ồ... vậy thì...” phu nhân Dutton miễn cưỡng đầu hàng và ngồi uỵch xuống cái ghế của cụ Archibald Murray.
“Nào, Emily, kể cho các bác nghe xem thực ra đã có chuyện gì nào,” ông Jimmy nói.
“Này, tôi lấy danh dự ra mà thề đấy!” bà Ruth bùng nổ. “Có phải ý cậu nói là chuyện tôi kể không phải chuyện thực sự đã xảy ra?”
Ông Jimmy giơ bàn tay lên.
“Nào... nào... cháu có cơ hội nói rồi đấy. Nói xem nào, Mèo Con.”
Emily kể lại từ đầu đến cuối câu chuyện. Có điều gì đó trong câu chuyện cô bé kể lại đã mang đến sự thuyết phục. Ít nhất trong số các thính giả cũng có ba người tin tưởng cô và cảm thấy một sức nặng khổng lồ đã được nhấc ra khỏi tâm trí. Thậm chí bà Ruth, tận trong thâm tâm, cũng biết rõ Emily đang kể lại sự thực, chỉ có điều bà sẽ không thừa nhận như thế.
“Một câu chuyện được bịa đặt đến là tài tình, xin thề trên danh dự của tôi đấy,” bà nói giọng giễu cợt.
Ông Jimmy đứng dậy băng ngang qua căn phòng. Ông cúi người xuống trước mặt phu nhân Dutton và gí bộ mặt hồng hào với chòm râu hình chạc và đôi mắt nâu thơ trẻ dưới mái tóc hoa râm xoăn tít bù xù vào sát sạt mặt bà.
“Ruth Murray,” ông nói, “chị có còn nhớ câu chuyện lan truyền khắp nơi bốn mươi năm trước về chị và Fred Blair không? Chị có nhớ không?”
Bà Ruth xô cái ghế ra phía sau. Ông Jimmy bám sát theo bà.
“Chị có còn nhớ rằng chính chị đã bị bắt gặp trong một tình cảnh khó xử còn tồi tệ hơn chuyện này nhiều không? Có phải thế không?”
Một lần nữa, bà Ruth tội nghiệp lại xô cái ghế về phía sau. Một lần nữa, ông Jimmy lại bám theo.
“Chị có còn nhớ chị đã phát điên phát rồ đến mức nào vì mọi người không tin chị không? Ấy vậy nhưng cha chị đã tin chị... ông ấy đã tin tưởng máu thịt của mình. Ông ấy có như thế không?”
Lần này bà Ruth đã tiến sát đến bức tường và đành phải đầu hàng vô điều kiện.
“Tôi... tôi... vẫn nhớ khá rõ,” bà nói ngắn gọn.
Hai gò má của bà đã đỏ như tôm luộc. Emily nhìn bà thích thú. Có phải bà Ruth đang đỏ mặt vì xấu hổ không? Thực ra, trong thời thanh xuân xa xăm của đời mình, bà Ruth Dutton đã từng trải qua mấy tháng trời khổ sở vật vã. Hồi còn mười tám, bà đã bị mắc kẹt trong một tình huống tồi tệ hết mức. Mà bà lại là người vô tội... vô tội một trăm phần trăm. Bà là một nạn nhân bất lực của một loạt tình huống quỷ quái bậc nhất. Cha bà đã tin tưởng câu chuyện của bà, gia đình bà đã ủng hộ bà. Nhưng suốt bao nhiêu năm trời, những người cùng thời với bà vẫn tin tưởng vào bằng chứng từ những sự kiện được người ta biết đến - và có lẽ nếu có khi nào họ bất chợt nhớ về câu chuyện ấy, niềm tin của họ vẫn vẹn nguyên như xưa. Bà Ruth Dutton rùng mình nhớ lại quãng đời khổ sở phải chịu đựng sự đả kích gay gắt của vụ bê bối ấy. Bà không còn đủ dũng khí từ chối tin tưởng câu chuyện của Emily, nhưng bà cũng chẳng thể nhẹ nhàng mà hạ vũ khí đầu hàng.
“Jimmy,” bà đanh giọng nói, “liệu cậu có thể vui lòng tránh ra và ngồi xuống không? Tôi cho là Emily đang nói sự thực... thật đáng tiếc là con bé phải mất bằng ấy thời gian mới đưa ra quyết định kể lại câu chuyện. Và tôi dám chắc kẻ đó có yêu con bé.”
“Không đâu, cậu ấy chỉ đề nghị cháu cưới cậu ấy thôi,” Emily lạnh lùng nói.
Các bạn có thể nghe thấy ba tiếng thở hổn hển trong căn phòng. Chỉ một mình bà Ruth có đủ khả năng cất lời.
“Mạn phép cho ta hỏi, cháu có định thế không?”
“Không. Cháu đã nói thế với cậu ấy hàng bao nhiêu lần rồi.”
“Chà, ta lấy làm mừng vì cháu sáng suốt như thế. Thị trấn Stovepipe à, thật tình!”
“Thị trấn Stovepipe chẳng liên quan gì đến chuyện này hết. Mười năm nữa, Perry Miller sẽ trở thành một người mà ngay cả một người nhà Murray cũng sẽ vui vẻ được bày tỏ lòng kính trọng. Nhưng cậu ấy không phải mẫu người mà cháu thích, chỉ thế thôi.”
Người này liệu có thể nào là Emily không - cô thiếu nữ cao ráo đang lạnh lùng đưa ra lý do từ chối một lời cầu hôn... và nói về “những mẫu người” mà cô thích? Bà Elizabeth, bà Laura, thậm chí cả bà Ruth cũng nhìn cô bé như thể chưa từng nhìn thấy cô bao giờ. Và trong đôi mắt họ ánh lên một sự tôn trọng mới mẻ. Tất nhiên họ biết Andrew đã... đã... thế đấy, nói tóm lại thì Andrew đã rồi. Nhưng chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa, phải nhiều năm sau thì Andrew mới sẽ... sẽ... thế đấy, sẽ! Còn giờ thì chuyện đã xảy ra với một người theo đuổi khác... xin nhớ cho rằng đã xảy ra “hàng bao nhiêu lần” rồi! Tại thời điểm đó, mặc dù vẫn chưa ý thức được rõ ràng, nhưng họ đã không còn coi cô bé là một đứa trẻ nữa. Bằng một bước nhảy vọt, cô bé đã bước vào thế giới của họ và kể từ giờ trở đi ắt hẳn phải được đối xử một cách ngang hàng. Chắc chắn không còn những buổi xét xử gia đình nữa. Dù không hiểu được nhưng họ vẫn cảm thấy điều này. Nhận xét tiếp theo của bà Ruth đã chứng tỏ điều đó. Bà nói bằng giọng điệu gần giống với giọng điệu hẳn bà sẽ dùng để nói với bà Laura hay bà Elizabeth, nếu bà cho rằng bà có nghĩa vụ phải khuyên nhủ họ.
“Cứ giả sử như, Emily, nếu có bất kỳ ai đi ngang qua lại nhìn thấy Perry Miller đứng trong cái cửa sổ đó vào cái giờ khuya khoắt đó thì sao?”
“Vâng, tất nhiên rồi. Cháu hiểu rõ góc nhìn của bác, bác Ruth ạ. Tất cả những gì cháu muốn là các bác hiểu được góc nhìn của cháu.Cháu đúng là ngu ngốc khi mở cửa sổ ra nói chuyện với Perry... giờ thì cháu thấy thế rồi. Chỉ là khi ấy cháu không nghĩ gì cả... rồi sau đó cháu lại quá chú tâm nghe cậu ấy kể về những rủi ro cậu ấy gặp phải tại bữa tối ở nhà tiến sĩ Hardy, thành ra chẳng để ý gì đến thời gian hết.”
“Perry Miller đã đến ăn tối tại nhà tiến sĩ Hardy hả?” bà Elizabeth hỏi lại. Lại thêm một tin tức khiến bà sửng sốt. Thế giới này - thế giới của nhà Murray - ắt hẳn đã lộn ngược theo đúng nghĩa đen, thì một kẻ ở thị trấn Stovepipe mới được mời ăn tối tại phố Queen. Cùng lúc đó, bà Ruth hoảng sợ đến thót tim khi nhớ lại Perry Miller đã nhìn thấy bà trong chiếc váy ngủ flanen màu hồng. Lúc trước, chuyện này chẳng có gì quan trọng cả... cậu ta chỉ là một chàng giúp việc ở trang trại Trăng Non. Nhưng bây giờ cậu là khách của tiến sĩ Hardy.
“Vâng ạ. Tiến sĩ Hardy nghĩ cậu ấy là một nhà hùng biện rất sáng láng và bảo cậu ấy có triển vọng,” Emily nói.
“Chà,” bà Ruth cáu kỉnh nói, “ta chỉ mong sao từ giờ về sau cháu đừng có đi vơ vẩn trong nhà ta và viết tiểu thuyết nữa. Nếu lúc đó cháu nằm yên trên giường, đúng như đáng nhẽ phải thế, thì có phải đã chẳng bao giờ có chuyện như thế này không.”
“Cháu không viết tiểu thuyết,” Emily kêu lên. “Cháu chưa từng viết bất cứ một câu một từ hư cấu nào kể từ khi cháu hứa với bác Elizabeth. Lúc đó cháu không viết bất kỳ cái gì hết. Cháu đã kể với bác là cháu chỉ xuống nhà lấy cuốn sổ Jimmy của cháu thôi.”
“Tại sao cháu không thể để nó lại đó cho tới sáng?” bà Ruth cố chấp hỏi.
“Thôi nào, thôi nào,” ông Jimmy nói, “đừng có khơi mào một cuộc tranh luận nữa đi. Tôi muốn ăn tối rồi. Cánh phụ nữ các chị cũng đi ăn đi thôi.”
Bà Elizabeth và bà Laura rời khỏi phòng không chút kháng cực, cứ như thể chính ông cụ Archibald Murray đã đưa ra mệnh lệnh đó vậy. Một lúc sau, bà Ruth cũng nối gót theo sau. Rốt cuộc sự tình không đi theo chiều hướng bà dự tính, nhưng xét cho cùng, bà đành cam chịu. Sẽ chẳng có gì hay ho nếu một vụ bê bối như thế này dính dáng đến một người nhà Murray bị bung bét khắp nơi, một tương lai sẽ chẳng thể nào tránh được nếu người ta phát hiện ra Emily bị kết tội.
“Vậy là chuyện đó đã được thu xếp xong xuôi rôi,” ông Jimmy nói với Emily khi cánh cửa khép lại.
Emily thở dài thườn thượt. Đột nhiên, cô cảm thấy căn phòng cũ kỹ tĩnh lặng oai nghiêm này dường như xinh đẹp và thân thiện xiết bao.
“Vâng, cảm ơn bác,” cô bé nói, nhảy bật từ đầu này sang đầu kia căn phòng để nồng nhiệt ôm chầm lấy ông. “Giờ thì, hãy mắng cháu đi, bác Jimmy, hãy trách mắng cháu thật nặng vào.”
“Không đâu, không đâu. Nhưng giờ ngẫm lại mà xem, nếu thận trọng hơn thì cháu đã không mở cái cửa sổ đó ra, phải không Mèo Con?”
“Tất nhiên là vậy rồi ạ. Nhưng thỉnh thoảng thận trọng cũng được xem như một tính xấu, bác Jimmy ạ. Người ta lấy làm xấu hổ về nó... người ta thích cứ thế mà tiến về phía trước và... và...”
“Và cứ treo hậu quả đấy,” ông Jimmy bổ sung.
“Đại loại thế ạ,” Emily bật cười. “Cháu không thích cả đời phải nói năng uốn éo, chẳng dám bước một bước dài vì sợ có người đang nhìn ngó. Cháu muốn ‘vẫy cái đuôi tự do và bước đi trong sự cô đơn tự do’. Không có chút xíu sự tổn hại đích thực nào trong việc cháu mở cửa sổ ra nói chuyện với Perry. Thậm chí cũng chẳng có bất kỳ tổn hại nào trong việc cậu ấy cố hôn cháu. Cậu ấy làm thế chỉ để trêu chọc cháu thôi. Ôi chao, cháu ghét các tục lệ lắm. Như bác đã nói đấy... cứ treo hậu quả đấy.”
“Nhưng chúng ta không thể treo chúng được, Mèo Con ạ... như thế chỉ gây thêm rắc rối thôi. Xét cho đúng ra thì chúng treo chúng ta ấy chứ. Để bác nói cháu nghe nhé, Mèo Con... giả sử... chỉ giả sử thôi thì chẳng có hại gì đâu đúng không nào... giả sử rằng cháu đã trưởng thành, đã lấy chồng và có một đứa con gái tầm tuổi cháu bây giờ, rồi một buổi tối, cháu xuống nhà dười và phát hiện ra con cháu trong tình cảnh như bác Ruth phát hiện ra cháu và Perry ấy. Cháu có thích chuyện đó không? Cháu có thấy dễ chịu không? Nói thật lòng đi nào?”
Trong một lúc, Emily nhìn chằm chằm vào lò sưởi.
“Không, cháu sẽ không thích,” cuối cùng cô bé nói. “Nhưng mà... chuyện này khác chứ ạ. Cháu có biết đâu.”
Ông Jimmy cười cùng cục.
“Thế mới là vấn đề, Mèo Con ạ. Người khác không thể biết được. Vậy nên chúng ta mới phải thận trọng trong mỗi hành động của mình. Ôi chao, bác chỉ là một ông Jimmy Murray ngờ nghệch, nhưng bác có thể thấy rõ chúng ta phải thận trọng trong mỗi hành động của mình. Mèo Con này, tối nay chúng ta có món sườn nướng đấy.”
Đúng lúc đó, một mùi thơm tỏa ra từ nhà bếp... một mùi vị ấm áp, dễ chịu không có bất kỳ sự liên hệ nào với những tình huống gây tổn thương và những bộ xương khô của dòng họ. Emily lại ôm chầm ông Jimmy thêm lần nữa.
“Thà ăn bữa cơm rau dưa cùng bác Jimmy còn hơn được ăn sườn nướng với bác Ruth,” cô bé nói.
Chương 19: “Những giọng nói từ trên cao”
“03 tháng Tư, 19...
“Có nhiều khi tôi chỉ mong sao mình có thể tin vào sức ảnh hưởng của những sao xấu hay tính xác thực của những ngày đen đủi. Nếu không thì làm sao những chuyện quỷ quái có thể xảy ra như nó vẫn thường xảy ra với những người thiện chí chứ? Bác Ruth chỉ vừa tỏ ra chán chẳng buồn nhắc lại cái đêm bác ấy phát hiện Perry đang hôn tôi trong phòng ăn thôi thì tôi đã lại dính phải một tình huống gian nan kỳ cục khác.
“Tôi sẽ trung thực. Không phải vì tôi làm rơi ô nên mới ra cơ sự thế, cũng không phải bởi vì thứ Bảy vừa rồi tôi làm rơi vỡ cái gương trong bếp ở Trăng Non. Chuyện thuần túy chỉ bắt nguồn từ sự bất cẩn của tôi.
“Nhà thờ Giáo hội Trưởng lão Thánh John ở Shrewsbury này đã khuyết vị trí mục sư từ hồi đầu năm và hiện đang nghe ngóng các ứng cử viên. Ngài Towers của tờ Thời đại đề nghị tôi tận dụng các ngày Chủ nhật không ở Hồ Blair để ghi chép lại các bài giảng đạo đăng trên tờ báo của ông ấy. Bài giảng đạo đầu tiên khá ổn thỏa và tôi ghi chép lại với sự thích thú. Bài thứ hai thì vô hại, rất vô hại, và tôi ghi chép lại chẳng chút đau khổ gì. Nhưng đến bài thứ ba, bài giảng tôi đã nghe vào Chủ nhật vừa rồi, lại đến là lố bịch. Trên đường từ nhà thờ về nhà, tôi nói thế với bác Ruth và bác ấy hỏi, ‘Cháu nghĩ cháu có đủ trình độ để chỉ trích một bài giảng đạo không?’
“Ái chà, có chứ, tôi có đủ trình độ đấy!
“Chưa từng thấy bài giảng đạo nào mâu thuẫn đến mức đó. Ông Wickham đã tự cãi lại mình đến gần chục lần. Ông ấy trộn nháo trộn nhào các phép ẩn dụ... câu của Shakespeare thì ông lại gán cho Thánh Paul... ông ấy gần như phạm phải hết thảy mọi tội lỗi thông thường có thể tưởng tượng được, bao gồm cả cái tội lỗi không thể tha thứ là đã biến mình thành một con người dốt nát chết người. Dẫu vậy, công việc của tôi là đưa tin về bài thuyết giảng, vậy nên tôi viết tin. Khi ấy, tôi cần phải làm gì đó để xóa bỏ tâm trạng khó chịu này, bởi vậy, tôi viết một bài phân tích cho vui. Đó là một hành động điên rồ nhưng đầy hứng thú. Tôi chỉ ra tất tật những điểm mâu thuẫn, những chỗ trích dẫn sai, những điểm yếu và sự thiếu chắc chắn của bài thuyết giảng. Tôi viết một cách hào hứng... tôi vận hết khả năng châm chọc, nhạo báng và khả năng ăn nói độc địa của mình... ái chà, tôi phải thừa nhận rằng đó là một văn bản rất cay độc.
“Rồi tôi lại gửi nhầm nó tới tờ Thời đại!
“Ông Towers chẳng buồn đọc mà gửi luôn cho nhân viên đánh máy. Ông ấy luôn dành cho tác phẩm của tôi một sự tin tưởng đáng cảm động, mà giờ thì sẽ chẳng bao giờ còn được như vậy nữa. Bài báo được đăng tải vào ngày hôm sau.
“Đến khi tỉnh lại, tôi phát hiện ra mình đã tai tiếng ngập tràn rồi.
“Tôi những tưởng ông Towers sẽ giận điên lên; ấy vậy nhưng ông ấy chỉ hơi bực bội thôi... và còn âm thầm thích thú nữa. Tất nhiên, ông Wickham vẫn chưa phải là mục sư chính thức ở đây. Chẳng ai buồn quan tâm đến ông ấy hay bài thuyết giảng của ông ấy, còn ông Towers lại là tín đồ Giáo hội Trưởng lão, vậy nên mọi người ở nhà thờ Thánh John chẳng thể quy cho ông ấy cái tội muốn sỉ nhục họ. Chính Emily Byrd Starr tội nghiệp là người phải gánh chịu toàn bộ sức nặng tội lỗi. Có vẻ như hầu hết bọn họ nghĩ rằng tôi làm thế ‘để khoe khoang’. Bác Ruth giận điên lên, bác Elizabeth phẫn nộ, bác Laura buồn rầu ủ rũ, bác Jimmy hoảng sợ. Chỉ trích bài thuyết giảng của một mục sư là một hành động tồi tệ đến mức nào kia chứ. Theo truyền thống của nhà Murray, các bài giảng của mục sư - đặc biệt là của các mục sư Giáo hội Trưởng lão - là thứ bất khả xâm phạm. Rồi sự táo tợn và thái độ tự cao tự đại của tôi sẽ hủy hoại tôi cho xem, bác Elizabeth lạnh lùng thông báo với tôi thế. Người duy nhất có vẻ hài lòng là thầy Carpenter. (Chú Dean đang ở mãi New York. Tôi biết chú ấy thể nào cũng sẽ thích nó.) Thầy Carpenter nói với tất cả mọi người rằng ‘mẩu tin’ của tôi là mẩu tin xuất sắc nhất thuộc kiểu đó thầy từng được đọc. Nhưng thầy Carpenter vốn bị ngờ là người dị giáo, vậy nên lời ngợi khen của thầy ấy cũng chẳng đạt được đến cái hiệu quả làm tôi hồi phục lại.
“Tôi cảm thấy đau khổ vô cùng trước vụ việc này. Đôi khi, những nhầm lẫn của tôi còn khiến tôi lo nghĩ nhiều hơn cả tội lỗi của tôi nữa. Tuy nhiên, sâu thẳm trong tôi, một thứ xấu xa tội lỗi nào đó đang cười ngạo trước chuyện này. Từng câu từng từ trong ‘mẩu tin’ ấy đều đúng sự thực. Và còn hơn cả sự thực - đều thích đáng. Tôi không hề trộn nháo trộn nhào các phép ẩn dụ.
“Nào, hãy để thời gian xóa nhòa câu chuyện này đi!”
“20 tháng Tư, 19...
“ ‘Nổi lên nào, gió Bắc và đến đi nào gió Nam. Hãy thổi trong vườn tôi, để mùi thơm từ đó bay ra.’[1]
[1] Trích Nhã ca 4-16
“Tối nay, tôi vừa ngân nga vừa băng qua Miền Chính Trực... chỉ có điều, tôi thay từ vườn bằng từ ‘rừng’. Vì mùa xuân đang quẩn quanh khắp nơi nơi và tôi đã quên hết mọi thứ, chỉ còn niềm hân hoan ở lại.
“Lúc sáng sớm, trời sầm sì và có mưa, nhưng đến chiều mặt trời đã lên, và tối nay, màn sương giá tháng Tư giăng nhẹ - chỉ vừa đủ khiến cho đất đai vững chắc. Đối với tôi, dường như trong đêm nay, các vị thần cổ xưa có thể gặp gỡ tại những chốn hoang vu. Nhưng tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài một vài vật vể ranh mãnh lẩn khuất giữa những thân linh sam, nếu không phải thuần túy chỉ là những chiếc bóng thì rất có thể chúng chính là một đoàn yêu tinh.
“(Tôi không biết tại sao yêu tinh lại là một từ quyến rũ đến thế trong khi tinh linh lại là từ đáng sợ biết bao. Và tại sao bóng tối khơi gợi vẻ đẹp trọn vẹn trong khi bóng râm thì lại xấu xí thế?)
“Nhưng trong lúc leo lên đồi, tôi nghe thấy vô vàn âm thanh thần tiên và mỗi âm thanh đều khơi dậy trong tôi một niềm hân hoan thấm thía đang dần tiêu tan. Lần nào leo lên ngọn đồi, tôi cũng đều có cảm giác mãn nguyện nào đó. Và đây lại còn là ngọn đồi tôi yêu thích nữa. Khi lên đến đỉnh, tôi đứng yên lặng, để mặc cho vẻ yêu kiều của buổi đêm tuôn chảy khắp châu thân như dòng nhạc. Kia Bà Gió đang ngân nga giữa vạt bu lô quanh tôi... kìa bà đang huýt sáo giữa những ngọn cây hình răng cưa in bóng trên nền trời! Một trong mười ba vầng trăng non bàng bạc của năm đang treo lơ lửng trên bến cảng. Tôi đứng đó, ngẫm ngợi về vô vàn, vô vàn điều đẹp đẽ... về những con suối hoang dã không gì ràng buộc chạy xuyên qua những cánh đồng tháng Tư lấp lánh ánh sao... về mặt biển khoác tấm áo choàng xám mịn màng đang gợn sóng... về cây du đang duyên dáng vươn mình dưới ánh trăng... về những rễ cây đang rùng mình chuyển động trong lòng đất... những con cú cười khanh khách trong bóng đêm... một dải sóng đang tung bọt dọc bờ cát dài... một vầng trăng mới mọc đang treo phía trên một ngọn đồi thẳm tối... những cơn bão xám xịt vùng vịnh.
“Tôi chỉ có bảy mươi lăm xu trên trần thế những Thiên đường nào có mua được bằng tiền.
“Rồi tôi ngồi xuống một tảng đá mang đậm dấu ấn thời gian, cố gắng chuyển những phút giây hạnh phúc tao nhã này vào một bài thơ. Tôi cảm thấy mình nắm bắt được hình dáng của chúng khá tốt... nhưng tâm hồn chúng thì không. Nó đã trốn khỏi tầm với của tôi.Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian